Nhiều giải pháp xúc tiến tiêu thụ, đa dạng thị trường xuất khẩu cho nông sản mùa vụ
Ngày 27/6/2025, tại trụ sở Bộ Công Thương, Cục Xúc tiến thương mại tổ chức Hội nghị giao ban Xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 6/2025 với chủ đề “Xúc tiến xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản mùa vụ Việt Nam”.
Theo đại diện Cục Xúc tiến thương mại, trước bối cảnh kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn, xu hướng bảo hộ gia tăng và các rào cản phi thuế quan ngày càng khắt khe, ngành nông sản Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng có tính mùa vụ cao đang chịu sức ép lớn trong việc duy trì đơn hàng, giữ thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các thị trường nhập khẩu lớn nông sản liên tục siết chặt tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, truy xuất nguồn gốc và điều kiện lao động, cùng với sự cạnh tranh thương mại ngày càng khốc liệt khiến doanh nghiệp trong nước gặp không ít khó khăn.
Trong nước, sản xuất vẫn chủ yếu nhỏ lẻ, thiếu liên kết chuỗi giá trị, công nghệ bảo quản và chế biến còn lạc hậu. Đặc tính mùa vụ khiến áp lực thu hoạch, vận chuyển và tiêu thụ nông sản trở nên trở nên dồn dập, dễ gây ra tình trạng ùn ứ và rớt giá.

Trước tình hình này, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị Giao ban Xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 6/2025 với chủ đề “Xúc tiến xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản mùa vụ Việt Nam”.
Rau quả Việt Nam có mặt tại hơn 80 thị trường trên thế giới
Trao đổi tại Hội nghị, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau Quả Việt Nam cho biết, năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam đạt kỷ lục 7,14 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2023. Trong 5 tháng đầu năm, xuất khẩu rau quả Việt Nam đạt 2,3 tỷ USD, giảm 13,5% so với cùng kỳ năm 2024.
Về thị trường, rau quả Việt Nam đã có mặt tại hơn 80 thị trường trên thế giới. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam, chiếm 65-70% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả trong giai đoạn trước năm 2025.
Tuy nhiên, thị trường Trung Quốc đang ngày càng siết chặt tiêu chuẩn đối với các nhà xuất khẩu, chuyển từ tiểu ngạch sang chính ngạch, yêu cầu phải có mã số vùng trồng, cơ cở chế biến và các tiêu chuẩn khác về an toàn vệ sinh thực phẩm.
“Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm”, ông Đặng Phúc Nguyên chia sẻ.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu rau quả lớn thứ 2 của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây. Các mặt hàng chủ lực bao gồm: dừa, sầu riêng, thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm,…
Mặc dù nhu cầu về trái cây nhiệt đới của Hoa Kỳ rất cao, tuy nhiên, khoảng cách địa lý cũng đã làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản, giá thành sản phẩm đòi hỏi Việt Nam phải có giải pháp về logistics và công nghệ bảo quản tốt để có thể cạnh tranh với các nước Nam Mỹ hoặc các nước Đông Nam Á.
Đứng thứ tư là thị trường châu Âu, đây là thị trường tiềm năng với nhu cầu tiêu thụ trái cây nhiệt đới rất cao. Tuy nhiên, các quy định nhập khẩu của thị trường này lại rất khắt khe. Mặc dù Hiệp định EVFTA đã mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, nhưng muốn thâm nhập sâu vào thị trường này, buộc doanh nghiệp phải đầu tư mạnh về sản xuất sạch, đạt các chứng nhận quốc tế và thích ứng nhanh với các thay đổi trong quy định về chất lượng của châu Âu.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Việt Nam có nhiều thuận lợi tiềm năng trong mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Cụ thể, Việt Nam có diện tích 1,2 triệu ha, đa dạng cây ăn quả và sản lượng liên tục tăng; chất lượng sản phẩm nông sản ngày càng nâng cao; doanh nghiệp, hợp tác xã hiện nay đã chủ động đầu tư vào công nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như Global GAP, Viet GAP nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại tự do FTA mà Việt Nam đã ký kết cũng đã tạo cơ hội lớn để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường xuất khẩu; các hoạt động xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa thị trường chính ngạch đã hỗ trợ các doanh nghiệp cập nhật thông tin, cơ hội để mở rộng kinh doanh; các ngành công nghiệp chế biến sâu cũng đang được đầu tư, đẩy mạnh giúp gia tăng giá trị sản phẩm, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, giảm áp lực phụ thuộc vào xuất khẩu tươi.
Mặc dù vậy, vẫn còn một số khó khăn trong xuất khẩu nông sản Việt Nam, cụ thể, ngành nông sản Việt Nam đặc biệt là các mặt hàng có tính mùa vụ cao như vải, nhãn, xoài,… đang chịu áp lực lớn trong việc duy trì đơn hàng, thị phần tại các thị trường xuất khẩu. Đặc tính mùa vụ gây ra nhiều áp lực trong việc thu hoạch, vận chuyển và thu hoạch dồn dập dễ gây ùn ứ và rớt giá.
Bộ Công Thương đồng hành xúc tiến xuất khẩu nông sản mùa vụ Việt Nam
Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại Vũ Bá Phúc cho biết, để hỗ trợ xúc tiến tiêu thụ nông sản mùa vụ Việt Nam trong năm 2025, Cục Xúc tiến thương mại đã tham mưu Lãnh đạo Bộ, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg về việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, thúc đẩy hoạt động thương mại năm 2025.

Tại Chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là các Bộ, cơ quan, địa phương) tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để thúc đẩy hoạt động thương mại năm 2025, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ xuất khẩu, gia tăng thị phần hàng hóa Việt Nam tại các thị trường truyền thống và các thị trường có FTA/CEPA với Việt Nam.
Đồng thời mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống có rủi ro cao; Thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại để nhập khẩu hợp lý, hiệu quả phù hợp với yêu cầu sản xuất, kinh doanh; Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trong nước, thực hiện các chương trình khuyến mại tập trung, kết nối cung cầu, đẩy mạnh Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại và phân phối hàng hóa qua nền tảng số, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường, tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp để khơi thông thị trường trong nước.
Trong đó, giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương và các hiệp hội ngành hàng triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cấp quốc gia về xúc tiến thương mại nhằm duy trì tăng trưởng xuất khẩu, đảm bảo cân đối cung cầu trong nước, cụ thể:
Chủ trì xây dựng, ban hành Kế hoạch tổng thể chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại giai đoạn 2025 – 2030 theo quy định.
Bên cạnh đó, chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức tăng cường thực hiện đa dạng, có hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ xuất nhập khẩu:
– Triển khai có hiệu quả, đa dạng hóa các chương trình xúc tiến thương mại với quy mô lớn, chuyên sâu theo từng ngành hàng tại các thị trường trọng điểm như: EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Ấn Độ, Trung Đông, châu Phi và khu vực Mỹ Latin… Tăng cường tổ chức chương trình xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh tại các thị trường có FTA/CEPA với Việt Nam, thị trường ngách và thị trường mới như: thị trường sản phẩm Halal, Saudi Arabia, Ai Cập, UAE, Brazil, thị trường Bắc Phi…vv. Tăng cường đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm công nghệ cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, máy móc, thiết bị và linh kiện, năng lượng tái tạo.
– Chỉ đạo hệ thống Thương vụ, Văn phòng Xúc tiến thương mại, Trung tâm Giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại nước ngoài tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam cung cấp thông tin, tư vấn thị trường, kết nối các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối ở thị trường sở tại, quảng bá sản phẩm, thương hiệu. Mở rộng triển khai quảng bá Chương trình và các sản phẩm đạt Thương hiệu Quốc gia Việt Nam và hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược thương hiệu bài bản, bảo hộ sở hữu trí tuệ tại thị trường nước ngoài. Tiếp tục mở rộng hệ thống các Văn phòng Xúc tiến thương mại Việt Nam tại các thị trường trọng điểm nhằm tăng cường nguồn lực hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài theo quy định.
– Phối hợp hiệu quả với cơ quan đại diện ngoại giao, thương vụ nước ngoài và các Tổ chức Xúc tiến thương mại quốc tế lớn như: KOTRA, JETRO, ITC … Tranh thủ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, hỗ trợ kỹ thuật của các Tổ chức quốc tế để nâng cao năng lực, kỹ năng xúc tiến xuất khẩu, tiếp cận thị trường của các Hiệp hội, ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam.
– Chủ trì, phối hợp với các bộ ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng lựa chọn, phát triển nhóm sản phẩm chủ lực gắn với Thương hiệu quốc gia và đẩy mạnh quảng bá thông qua hoạt động hội chợ triển lãm, sự kiện ngoại giao – văn hóa, và nền tảng số nhằm nâng cao giá trị, vị thế sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.
– Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ nhập khẩu có chọn lọc đối với nguyên liệu đầu vào, linh kiện, thiết bị, công nghệ phục vụ sản xuất, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực sản xuất, gia tăng giá trị sản phẩm để xuất khẩu, góp phần cân bằng cán cân thương mại tại các thị trường lớn như: Hoa Kỳ, EU.

Đồng thời, chủ trì, chỉ đạo thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại phát triển thị trường nội địa:
– Tăng cường thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại liên kết vùng, liên kết ngành trong tiêu thụ sản phẩm nội địa, các hội chợ, triển lãm hàng hóa quy mô quốc gia và khu vực, phát triển các mô hình “kết nối cung – cầu”, “hội chợ hàng Việt lưu động”, “đưa hàng Việt về nông thôn, khu công nghiệp, vùng sâu vùng xa” để mở rộng độ phủ thị trường.
– Tổ chức hiệu quả các chương trình khuyến mại tập trung trên phạm vi toàn quốc trong các tháng tiêu dùng thấp điểm và các tháng cuối năm với các hình thức thiết thực, sáng tạo và phù hợp xu hướng tiêu dùng mới, đảm bảo quyền của người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.
Chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong công tác xúc tiến thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh:
– Tăng cường thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại trên môi trường số, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu trực tuyến thông qua các sàn thương mại điện tử, tổ chức các hoạt động kết nối giao thương trực tuyến để tiếp cận nhanh chóng với thị trường quốc tế.
– Phối hợp với các sàn thương mại điện tử triển khai các chương trình xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước. Phát động phong trào tiêu dùng hàng hoá Việt Nam, sản phẩm địa phương thông qua các mô hình gian hàng quốc gia Việt Nam trên sàn thương mại điện tử.
– Áp dụng các giải pháp công nghệ để nâng cao hiệu quả của hệ thống xúc tiến thương mại.
– Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng xúc tiến thương mại, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.
Ngoài ra, tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến thương mại; phối hợp với bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả các biện pháp kiểm tra, kiểm soát thị trường, xử lý các hành vi liên quan buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.