Đảm bảo cơ sở khoa học, khách quan khi áp thuế nước giải khát có đường
Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, một số chuyên gia và đại biểu Quốc hội đề xuất, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường cần được đánh giá toàn diện, cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình và nghiên cứu với đầy đủ cơ sở khoa học, nghiên cứu thực tiễn.
Gần đây, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đang được xây dựng với mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trong bối cảnh thừa cân, béo phì đang gia tăng. Theo Dự thảo mới nhất, nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam với hàm lượng đường trên 5g/100ml sẽ chịu thuế suất 8% từ năm 2027 và 10% từ năm 2028.
Tuy nhiên, các chuyên gia và nhiều đại biểu Quốc hội đều cho rằng chính sách này cần được cân nhắc kỹ lưỡng và nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học rõ ràng, minh bạch. Nhiều ý kiến cho rằng chưa có cơ sở khoa học chứng minh nước giải khát có đường là nguyên nhân chính của bệnh thừa cân, béo phì và tiểu đường cũng như chưa có cơ sở vững chắc cho thấy việc đánh thuế sẽ kiểm soát hiệu quả tình trạng này.
Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thừa cân, béo phì. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác là (22%). Ngoài ra, một số sản phẩm khác cũng có chứa đường ở mức cao như trà sữa, nước mía, chè, bánh kẹo… cũng gây ra tình trạng thừa cân, béo phì.

Các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế tại Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 đã chỉ ra rằng thừa cân, béo phì do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm: (1) Chế độ dinh dưỡng không hợp lý, tiêu thụ các thực phẩm giàu năng lượng bao gồm các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đường, muối và không đủ chất xơ; (2) Thiếu hoạt động thể chất, lười vận động; (3) Các nguyên nhân di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa thừa cân, béo phì với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống làm việc, thời gian ngủ…
Thống kê của Bộ Y tế và Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy, tỷ lệ trẻ em béo phì ở Việt Nam tăng từ 8,5% năm 2010 lên 19% năm 2020. Dù tăng nhanh, nhưng tỷ lệ này vẫn được đánh giá là thấp so với mặt bằng khu vực và thế giới, khi Việt Nam đứng thứ 200 về béo phì người trưởng thành và thứ 137 về béo phì trẻ em. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Bộ Y tế đều khẳng định, thừa cân, béo phì là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố như chế độ ăn thiếu hợp lý, thiếu vận động thể chất, yếu tố di truyền, môi trường sống, thói quen sinh hoạt chứ không chỉ do tiêu thụ nước giải khát có đường.
Về mức độ tiêu thụ, số liệu của Bộ Tài chính cho thấy, mức tiêu thụ đồ uống có đường ở Việt Nam năm 2018 là 50,7 lít/người/năm. Theo số liệu của Bộ Y tế, năm 2020 Việt Nam tiêu thụ 3,3 tỷ lít nước giải khát, tương đương với khoảng 34 lít/người/năm. Như vậy, mức độ tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam từ năm 2018 đến năm 2020 có chiều hướng giảm.
So với nhiều quốc gia và khu vực, mức độ tiêu thụ này là khá thấp. Ví dụ, theo báo cáo của Hiệp hội ngành giải khát châu Âu (UNESDA) năm 2019, mức tiêu thụ nước giải khát bình quân đầu người ở châu Âu là 243,9 lít/ người, gấp khoảng 4,8 lần so với Việt Nam. Tại châu Á, nhiều nước cũng có mức tiêu thụ bình quân nước giải khát trên 100 lít/người/năm, trong đó Nhật Bản là quốc gia có lượng tiêu thụ nhóm nước giải khát này cao nhất trong khu vực với mức dự kiến năm 2023 là 169,28 lít/người/năm. Tại khu vực châu Mỹ La-tinh, theo số liệu của Euromonitor công bố năm 2018 cho thấy mức tiêu thụ đồ uống có đường bình quân đầu người hàng ngày ở khu vực này là 252 ml/người/ngày, tương ứng với khoảng 91,98 lít/người/năm.
Dựa vào những số liệu trên, có thể thấy mức tiêu thụ nước giải khát ở Việt Nam không phải là cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường không hoàn toàn kiểm soát hiệu quả tình trạng thừa cân, béo phì. Tỷ lệ béo phì vẫn tiếp tục tăng tại các quốc gia đã áp dụng sắc thuế này như Chile, Mexico, Bỉ. Trong khi đó, Nhật Bản, quốc gia không áp thuế nước giải khát lại có tỷ lệ béo phì thấp nhất thế giới, nhờ tập trung vào giáo dục dinh dưỡng và thay đổi hành vi tiêu dùng…
PGS. TS. Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam (VBA) chia sẻ, ngành đồ uống trong đó có các doanh nghiệp nước giải khát hiện đang có những đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước mỗi năm, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho hàng triệu lao động.
Để bảo đảm tăng trưởng kinh tế, PSG. TS. Nguyễn Văn Việt kiến nghị sức khỏe doanh nghiệp, ổn định nguồn thu và sức cầu tiêu dùng nội địa cần được quan tâm. Qua đó, Chủ tịch VBA đề xuất rằng các nhà hoạch định chính sách tập trung đánh giá toàn diện và cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình khi áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường, chỉ bổ sung khi đã có đủ các bằng chứng, cơ sở khoa học, nghiên cứu thực tiễn và đánh giá đầy đủ.